So sánh mức nguy cơ nhiễm khuẩn khác nhau ở các lứa tuổi
- Bởi : Hoàng Hải Yến
- - Chuyên mục : Tin Tức Sức Khỏe
Với trẻ nhỏ hơn 28 ngày tuổi, khi đã tiêm vacxin thì tỉ lệ nhiễm khuẩn nặng ở trẻ sốt thấp hơn nếu trẻ có nhiễm cúm và RSV. Cùng với đó là sự giảm tỉ lệ viêm phổi nặng và nhiễm HI cũng nhờ sự ra đời của vaccine, nhờ vậy sử dụng các test virus (+) như là 1 cách để giảm lượng xét nghiệm máu và nước tiêu
1.Nguy cơ nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh
Sốt trong 4 ngày đầu liên quan đến bệnh nhiễm khuẩn từ trước.
Khoảng 1% trẻ sơ sinh có nhiệt độ trên 37 độ C, và có 10% trong số đó có nhiễm khuẩn, thường do liên cầu B hoặc nhiễm khuẩn gram (-). Bộ xét nghiệm tổng quát được làm ở những trẻ này từ xn máu cho đến xn nước tiểu, và dịch não tủy. Kháng sinh (thường dùng ampicillin và gentamicin, hoặc ampicillin và cefotaxime tiêm tĩnh mạch) nên được dùng trước khi có kết quả xét nghiệm.
Tương tự, với trẻ nhỏ hơn 28 ngày tuổi có sốt thường có nguy cơ nhiễm khuẩn cao (chiếm 12% trong các nghiên cứu). viêm phổi ít gặp, trong khi nhiễm E.coli, liên cầu B và những vi khuẩn đường ruột hay gặp hơn. Nhiễm trùng đường tiểu (UTI) và những nhiễm khuẩn sâu là những nhiễm khuẩn thường gặp, tuy nhiên, với nhiễm liên cầu B, nguy cơ viêm màng não là khoảng 39%. Tiêu chuẩn nguy cơ thấp như tiêu chuẩn Rochester, rất khó đẻ phân biệt một nhiễm khuẩn nặng ở trẻ nhro với nhiều bệnh lành tính khác. Mặc dù có nhiều nghiên cứu chứng minh chỉ có 0.2% tỉ lệ viêm màng não ở trẻ sơ sinh thỏa mãn tiêu chuẩn nguy cơ thấp, một số khác lại chỉ ra rằng có 6% trẻ sơ sinh thỏa mãn tiêu chuẩn này có nhiễm khuẩn nặng. Dù vậy, khả năng nhiễm khuẩn nặng ở trẻ nhiễm RSV không thấp hơn so với bình thường khi trẻ có sốt, nhưng thường gặp là nhiễm khuẩn tiết niệu hơn là viêm màng não hay những nhiễm khuẩn khác.
NKTN đặc biệt hay gặp, khoảng 5-7%. Ngoài ra, nhiễm herpes (HSV1/HSV2), đặc biệt là viêm não màng não cũng cần được nghĩ tới nếu có vỡ ối sớm, đẻ có can thiệp hay có những bằng chứng trên lâm sàng (tăng hay giảm nhiệt độ, li bì hoặc kích thích, co giật, hôn mệ, mụn nước ở da/miệng… ). Cần điều trị Avylclovir trong khi chờ có kết quả xét nghiệm dịch não tủy, máu, nước tiểu để khẳng định chẩn đoán.
2.Nguy cơ nhiễm khuẩn ở nhóm trẻ ngoài sơ sinh
Sốt trên 38 độ C với tẻ từ 28-60 ngày tuổi có 5-10% liên quan đến nhiễm khuẩn nặng. Cần kết hợp cả lâm sàng và cận lâm lầm sàng để xác định với những trẻ có nguy cơ nhiễm khuẩn thấp. Được biết đến nhiều nhất là tiêu chuẩn Rochester
Khó có thể phân loại rõ ràng nguy cơ nhiễm khuẩn cao hay thấp ở trẻ dưới 3 tháng tuổi khi có sốt. Cần xem xét một cách toàn diện bất cứ khi nào có sốt trên 38 độ C: từ khám lâm sàng, đến công thức bạch cầu, xét nghiệm nước tiểu, soi phân nếu có ỉa chảy, công thức máu và có thể cả dịch não tủy. Xét nghiệm nước tiểu rất quan trọng vì UTIs là nhiễm khuẩn hay gặp nhất ở lứa tuổi này, thậm chỉ cả khi không có đái ra mủ.
Nếu trẻ không có dấu hiệu nhiễm khuẩn và thỏa mãn tiêu chuẩn nguy cơ thấp, có thể không cần phải làm xét nghiệm máu hay dịch não tủy, cần theo dõi trong vòng 24 h và không cần dùng kháng sinh. Nếu đã dùng kháng sinh trước đó, cần phải làm các xét nghiệm để kiểm tra.
Sau khi hỏi bệnh, các triệu chứng liên quan về bệnh tật cũng như gia đình, kiểm tra trẻ đã được tiêm vaccine Hib và liên cầu B, bác sĩ sẽ đánh giá xem trẻ có dấu hiệu nhiễm độc hay không (li bì hoặc kích thích, không phản ứng, chất độc còn lưu lại), sau đó đưa trẻ nhập viện để đánh giá sâu hơn tình trạng nhiễm khuẩn nặng. Nếu trẻ không có dấu hiệu nhiễm độc, vẫn cần xem xét công thức máu. Trẻ có bạch cầu >>15,000/mm3 có nguy cơ nhiễm khuẩn cao gấp 5 lần so với trẻ có BC <15,000. Procalcitonin và CRP nhạy và đặc hiệu hơn BC trong việc chẩn đoán nhễm khuẩn nặng.
Có khoảng 5-8% trẻ trong độ tuổi 3-36 tháng tuổi có sốt không phân biệt được, trong đó có NKTN. 2 nhóm này có nguy cơ cao nhất. Trẻ gái với nhiệt độ trên 39 độ C có tỉ lệ là 16-17%. Trẻ nam không cắt bao quy đầu trong 12 tháng đầu có tỉ lệ mặc NKTN cao hơn 8-9 lần so với trẻ được cắt bao quy đầu. Vì tỉ lệ cao mắc NKTN ở lứa tuổi này nên xét nghiệm nước tiểu được khuyến cáo làm cho tất cả trẻ nam trên 6 tháng tuổi. nhưng một mình xn nước tiểu thì không đủ. 20% trẻ có NKTN nhưng xét nghiệm nước tiểu bình thường, cả nitrit và bạch cầu niệu đều (-). Tuy nhiên một số nghiên cứu gần đây chỉ ra que thử nước tiểu có khả năng phát hiện loại trừ NKTN, với giá trị âm tính là 98%.
Một phim chụp ngực chỉ cần thiết khi có những dấu hiệu và triệu chứng gợi ý viêm phổi như ho, thở nhanh, khó thở, có rale, phế âm giảm, gõ đục…Tuy nhiên, một nghiên cứu chỉ ra rằng có tới 20% trẻ sốt trên 39độ C và bạch cầu trên 20000/mm3 có viêm phổi trên phim chụp ngực, thậm chí khi không có dấu hiệu và triệu chứng về hô hấp.
Nếu xem xét tất cả các điều bên trên, rõ ràng để có thể chấn đoán một nhiễm khuẩn nặng, cần phải căn cứ cả vào các nhóm tuổi và hoàn cảnh khác nhau. Sự ra đời của tiêm chủng là giảm đi các bệnh do các tác nhân đó, và giúp cho chẩn đoán nhiễm virus sớm hơn. Thậm chí ở phòng cấp cứu cũng bắt buộc phải tiếp cận một cách khoa học trong các test chẩn đoán, nhập viện và điều trị. Một cách để thực hiện điều này được chỉ ra trong Figure 29-3.
3. Ưu điểm lớn khi trẻ được tiêm chủng
Hiện nay đã có sẵn các xét nghiệm để chẩn đoán virus nhanh, ví dụ như test cúm A,B, RSV và enterovirus. Mặc dù độ nhạy và độ đặc hiệu thay đổi tùy từng test nhưng một kết quả (+) sẽ giúp làm giảm thiểu các xét nghiệm khác trong việc loại trừ một nhiễm khuẩn. Với trẻ nhỏ hơn 28 ngày tuổi, tỉ lệ nhiễm khuẩn nặng ở trẻ sốt thấp hơn nếu trẻ có nhiễm cúm và RSV. Cùng với đó là sự giảm tỉ lệ viêm phổi nặng và nhiễm HI nhờ sự ra đời của vaccine, nhờ vậy sử dụng các test virus (+) như là 1 cách để giảm lượng xét nghiệm máu và nước tiêu ở trẻ em đã được tiêm chủng lớn hơn 2-3 tháng tuổi- lứa tuổi mà hầu như không bị nhiễm độc. Trẻ lớn hơn 3 năm thường dễ nhận ra dấu hiệu và triệu chứng của bệnh hơn. Nếu như triệu chứng không đặc hiệu, không cần đưa đến gặp bác sĩ khẩn cấp. tuy nhiên, nếu có cá dấu hiệu và triệu chứng khu trú như sưng khớp, khó thở, đau ngực, tiểu khó, đau bụng nặng thì cần đưa đi khám ngay. Hơn nữa, bất kì trẻ nào có sốt hoặc hạ thân nhiệt thỏa mãn tiểu chuẩn của SIRS cũng đều cần được đánh giá khẩn cấp.
Mặc dù nhiều trẻ sốt không có dấu hiệu và triệu chứng chỉ điểm nguyên nhân, nhưng một thăm khám toàn diện có thể phát hiện được những gợi ý đến nguồn gốc của sốt. Vì đa số nhễm trùng có ở hệ hô hấp, nên cần thăm khám kĩ lưỡng.
Trong mọi trường hợp,cần kiểm tra màng nhĩ để phát hiện viêm tai giữa, kiểm tra phát hiện viêm họng, viêm mũi xoang hay các nhiễm trùng đường hô hấp trên do virus cũng như khám phổi để tìm bằng chứng của viêm phổi, viêm tiểu phế quản.
Viêm kết mạc có thể gợi ý nhiễm adenovirus hoặc RSV, hội chứng viêm kết mac- viêm tai giữa hoặc bệnh Kawasaki.
Khám da cũng rất quan trọng để phát hiện những trường hợp nhiễm virus điển hình như rubella, thủy đâu, hay những ban trong sốt thấp khớp, những nốt hồng ban trong sốt thương hàn.
Thông thường nổi hạch thường gặp trong nhiễm virus như nhiễm mononucleosis, viêm gan hay cytomegalovirus, nhưng nó cũng có thể gợi ý đến bệnh leukemia hay u lympho. Nổi hạch lan tỏa nên chú ý tìm nhiễm trùng da hay khối u. hạch vùng chậu có thể liên quan đến nhiễm lao hoặc bệnh mèo cào (nhiễm trùng Bartonella).
Hệ cơ xương khớp cũng cần được thăm khám cẩn thận. đau xương khu trú có thể gợi ý viêm xương tủy, khớp sưng nóng hạn chế vận động có thể do viêm khớp.
Khám kĩ hệ tim mạch để phát hiện viêm tim do sốt thấp khớp hay viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Khám cột sống để phat hiện viêm đĩa đệm,
Mặc dù khộng hay gặp, sốt giả tạo vẫn được xem là chẩn đoán cuối cùng và đã được mô tả thực tế. Đứa trẻ 8 tuổi đã biết cách làm tăng nhiệt độ của nhiệt kế bằng cách cọ xát vào một tờ giấy hay cho vào nước ấm. Khám lâm sàng nhận thấy mạch không tăng tương ứng với nhiệt độ, nhiệt độ đo ở trực tràng bình thường, không vã mồ hôi khi hạ sốt. Kiểm tra những rối loạn tâm lí trong gia đình là cần thiết trong những trường hợp như thế này.
Copy ghi nguồn: https://europemedpharma.com
Link bài viết: So sánh mức nguy cơ nhiễm khuẩn khác nhau ở các lứa tuổi
Không có phản hồi